Nhà soạn kịch – nhà thơ Đoàn Phú Tứ – Ảnh nguồn Internet
Đoàn Phú Tứ sinh ngày 10 tháng 9 năm 1910 tại Hà Nội, quê quán Tử Nê, huyện Tiên Du (nay là huyện Tiên Sơn), tỉnh Bắc Ninh. Trong sự nghiệp sáng tác, Đoàn Phú Tứ soạn kịch, hoạt động sân khấu là chính và ít làm thơ, ngoài ra ông còn là dịch giả của nhiều tác phẩm của các tác giả lớn phương Tây.
Năm 1939, ông cùng với các văn nghệ sĩ cùng chí hướng sáng tạo, gồm các nhà văn, nhà thơ: Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Lương Ngọc; họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung và nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát thành lập nhóm Xuân Thu nhã tập. Đến tháng 6 năm 1942, thì họ xuất bản được một tập sách có cùng tên là Xuân Thu nhã tập (do Xuân Thu thư lâu xuất bản), gồm một số bài thơ, văn xuôi triết lý và tuyên ngôn nghệ thuật của nhóm.
Năm 1941, Đoàn Phú Tứ và bài thơ “Màu thời gian” của ông được Hoài Thanh và Hoài Chân giới thiệu trong quyển Thi nhân Việt Nam (xuất bản năm 1942).
Sau Cách mạng tháng Tám (1945), ông hoạt động văn nghệ ở Thanh Hóa rồi Việt Bắc. Ông có chân trong tòa soạn tạp chí Văn nghệ, trong Ban chấp hành Đoàn Sân khấu Việt Nam và Hội Văn hóa Việt Nam.
Năm 1946, ông được bầu vào Quốc hội Việt Nam khóa I, nhưng sau đó đã từ nhiệm từ năm 1951. Theo tài liệu, thì trong lúc làm đại biểu Quốc hội, ông đã viết thư gửi lên Chủ tịch Hồ Chí Minh để tố cáo Đại tá Trần Dụ Châu. Sau đó, Hồ Chủ tịch đã ra lệnh điều tra làm rõ vụ việc, và Trần Dụ Châu đã bị Tòa án binh tối cao tuyên án tử hình năm 1950 vì tội tham nhũng. Năm 1951 ông cũng từ nhiệm Đại biểu Quốc hội.
Năm 1951-1954, ông dạy Đại học Văn khoa và một vài trường tư thục ở Hà Nội.
Sau khi hòa bình lập lại (1954), khoảng 20 năm cuối đời, ông tiếp tục viết và dịch (ký bút danh Tuấn Đô) được nhiều tác phẩm có giá trị.
Cuối đời của nhà thơ Đoàn Phú Tứ
Năm 1984, ông nhận Giải thưởng văn học dịch của Hội Nhà văn Việt Nam.
Ngày 20 tháng 9 năm 1989, Đoàn Phú Tứ mất trong cảnh nghèo tại khu An Dương, Ba Đình, Hà Nội, hưởng thọ 79 tuổi. Nghe theo lời trăn trối của bạn, nhà văn Phùng Quán đã ‘bạo gan’ đến Văn phòng Quốc hội để xin tiền mai táng, và được chấp thuận…Nhưng sau này trong cuốn “Ba phút sự thật” của Phùng Quán, ông đã viết khi Đoàn Phú Tứ mất, vì tình cảm ông dành cho Đoàn Phú Tứ, vì sự trân trọng của ông đối với người thi sĩ và vì ông cảm thấy buồn rầu vì gia cảnh “vô phương giúp đỡ” của nhà thơ nên đã đánh bạo viết một bức thư “chuyển lời” Đoàn Phú Tứ rằng: “…Nếu mình nằm xuống thì Quán hãy viết thư kêu ông Chủ tịch Quốc hội, trình bày hoàn cảnh gia đình mình, và chuyển lời mình đến với ông: Nếu Quốc hội còn nhớ tình cũ nghĩa xưa, thì xin một cỗ áo quan và một chút tiền để mai táng”. Nhưng thực ra bức thư mà mọi người nghĩ là chuyển lời trăn trối của Đoàn Phú Tứ, bức thư mà Phùng Quán đã phải “đắn đo, cẩn trọng, chép đi chép lại nhiều lần, cân nhắc từng chữ một” lại là “ý tưởng” của Phùng Quán. Vì vậy nên ông đã viết trong phần cuối “Chút nghĩa cũ càng” (nằm trong Ba phút sự thật) rằng: “Tôi coi thiên hồi ức này là sự tạ tội trước hương hồn nhà thơ Đoàn Phú Tứ vì nội dung điều nói dối của tôi không phù hợp với tính cách con người ông; đồng thời đây cũng là lời tự thú với đồng chí Lê Quang Đạo mà tôi hết lòng kính trọng, với các anh ở cơ quan Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước, và với độc giả.” . Văn phòng Quốc hội mang đến Vòng hoa lớn với dòng chữ Kính viếng nhà thơ nổi tiếng Đoàn Phú Tứ.
Tác phẩm của nhà thơ Đoàn Phú Tứ
Sáng tác
Những bức thư tình (gồm 6 vở kịch ngắn, Nhà xuất bản Đời nay, 1937). Trong quyển có vở kịch “Hận Ly Tao” được nhà văn Vũ Ngọc Phan khen là “thật tuyệt vời” về mặt nghệ thuật.
Mơ hoa (gồm 6 vở kịch ngắn, Nhà xuất bản Đời nay, 1941)
Ghen (kịch dài, đăng báo Tinh hoa, 1937; diễn tại Nhà hát Lớn Hà Nội đêm 13 tháng 3 năm 1947; Nhà xuất bản Nguyễn Du in thành sách, 1942)
Ngã ba (kịch dài, đăng báo Thanh nghị, 1943)
Thằng cuội ngồi gốc cây đa (kịch ngắn đăng báo báo Thông tin, 1944)
Trở về (kịch ngắn, Chính trị cục xuất bản, 1949)
Phương pháp viết kịch (giáo trình, Nhà xuất bản Minh Đức, 1950)
Đi tìm chủ từ trong vài đoạn văn “Đoạn trường tân thanh” (Hội Văn hóa Việt Nam xuất bản, 1949).
Ngoài ra, ông còn có một ít bài thơ, một ít bài văn xuôi nói về quan niệm sáng tác, và hai bài ký ngắn: “Hai sườn Tam đảo” (bài ký, đăng trên tạp chí Văn nghệ, 1948), “Hạ đồn Dóm” (bài ký, đăng trên tạp chí Văn nghệ, 1949).
Dịch thuật
Với bút danh Tuấn Đô, ông đã dịch một số kịch và tiểu thuyết:
Lão hà tiện (L’Avare ou l’École du mensonge của Molière)
Trưởng giả học làm sang (Le Bourgeois gentil homme của Molière)
Đỏ và đen (Le Rouge et le Noir của Stendhal)
Tuyển tập kịch Muy-sê (Alfred de Musset)
Hài kịch Shakespeare, tập I
Pantagruel (của François Rabelais)
Tuyển tập kịch Henrik Ibsen,…
Thành tựu nghệ thuật của nhà thơ Đoàn Phú Tứ
Đoàn Phú Tứ là một trong số ít người đi đầu (về sáng tác cũng như về trình diễn) trong lịch sử kịch nói Việt Nam thời non trẻ.
Về nội dung tư tưởng, có thể chia kịch của ông thành hai xu hướng chính: Tình yêu (tiểu biểu là 2 tập: Những bức thư tình và Mơ hoa) và triết lý (tiểu biểu là 2 tập: Ngã ba, Thằng cuội ngồi gốc cây đa). Tuy nhiên hai xu hướng này không hoàn toàn tách biệt, vì trong kịch tình yêu ít nhiều đều có yếu tố triết lý, và ngược lại… Về phương diện nghệ thuật, nói chung kịch bản của ông có kịch tính cao, nhân vật có bản sắc, bố cục chặt chẽ…Ngoài ra, tuy ít làm thơ, nhưng ông cũng nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam trong phong trào Thơ mới với bài thơ “Màu thời gian” . Với thi pháp đặc sắc, cùng với thi tứ chân thành mà kín đáo, bài thơ đã được nhiều người tán thưởng.
Hiện nay, tại phường An Lạc A, TP. Hồ Chí Minh và phường Liên Chiểu, Đà Nẵng có đường phố mang tên Đoàn Phú Tứ.
Tổng hợp nguồn từ Internet
0 Comments